Ông Hoàng Mười

Tên húy Ngài: Nguyễn Xí
Đền thờ chính: Hà Tĩnh, Nghệ an

Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh

Theo truyền thuyết, ông Hoàng Mười là con thứ mười của Đức Vua cha Bát Hải Động Đình. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh. Vì thế, ông Hoàng Mười còn được nhân dân xứ Nghệ tôn vinh là “Đức thánh minh”, là một vị quan nằm trong hệ thống điện thần thờ mẫu tứ phủ ở Việt Nam.

Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản.

Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Lại có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, con trai Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An.

Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế.

Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mội người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời.

Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Mười Củi) không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn), không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).

Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng (khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương). Khi ngự về đồng Ông Mười thường mặc áo vàng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim.

Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam (quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền) và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền 10.000đ màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá (là những đặc sản của quê hương ông) rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm tai.

Đền thờ Ông Hoàng Mười là Đền Chợ Củi, chính là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (cũng chính là nơi quê nhà của Ông Mười). Ngày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông: cờ quạt bút sách… để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông.

Thỉnh:

Chấn thủ Nghệ An ông Hoàng Mười
Vô chùa niệm phật Quan Âm
Phật ban bốn chữ: Minh – Tâm – Thiện – Tài
Trong thời học phép Như Lai
Đêm đêm luyện tập văn bài sử kinh
Tiêu dao đi dưỡng tang tình
Thơ tiên một túi sách phật kinh ngàn từ
Khi phong nguyệt lúc lại bi từ
Sớm xem hoa nở, tồi chờ trăng lên
Khi tiêu lĩnh lúc lại non bồng
Cành cây mắc võng dòng sông ngự thuyền
Thăng Long kén khách lâm thuyền
Nam thanh nữ tú mình quyền bóng ông
Phong quang đẹp ý ông Hoàng
Khác nào t nào thu cúc, xuân loan tứ tuần
Về huyện Kim Bảng làm quan Phủ Giầy

Hát sai:

Thỉnh bóng ông Mười hôm nay
Thỉnh bóng ông Mười đèn nhang khuya sớm
Sớm hôm phụng thờ, trong kinh có chữ nam mô
(Ông Mười đề thơ)
Đêm thanh ngoạn cảnh vườn đào
Bút tiên nghiên ngọc đề vào là thơ tiên
Bút phát linh linh bút sa tà tinh
Ông Mười đi thất bộ đề bài thơ Lý Đỗ
Độ cho trăm họ an lành
Ông cầm bút tiên ông họa vần thơ tiên
Họa ra bốn chứ Khang – Ninh – Thọ – Trường
Bút pháp linh linh rượu nhập thần
Hoa khai quả kết vạn cảnh xuân
Ông Mười giáng bút an muôn họ
Trăm họ ông ca cổ thánh thần

Thơ chuốc rượu:

Rượu đào xin ông Mười nhấp chén cho say
Trăm hoa giao kết mừng ngày tiệc vui
Tính tình tay tiên rót chen rượu đào
Dâng nhất tuần sớ, dâng lên cũng Mẫu
Dâng lên bệ ngọc
Các cô dâng mời rước ông Mười xơi
Á xơi rước ông Mười xơi
Dâng nhị tuần á tính tình tay tiên
Rót chén rượu đào dâng lên cũng mẫu
Dâng lên bệ ngọc
Các cô dâng mời là mời rước ông Mười xơi
Tam bôi rót chén rượu đào
Dâng lên cung Mẫu dâng lên Bệ Ngọc
Các cô dâng mời là mời rước ông Mười xơi
Á xơi rước ông Mười xơi

Ngâm thơ:

Đất lề quê thói Nghệ An có miếng trầu cau đậu
Để kính ông Hoàng Mười
Chí anh hùng ra tay dựng nước
Ông Mười đi tới đâu thì giặc phải tan ngay
Việt Nam còn ghi chép sử này
Cũng bao địa ngọc đêm ngày khói nhang
Khi hội nghị luận bàn việc nước
Ông Hoàng Mười mang tài thao lược để hiến dâng
Lĩnh sắc rồng ông Hoàng Mười khiển tướng điều quân
Gươm thiêng ba thước, ngựa hồng ông Hoàng Mười xông pha.
Ông Mười nhủ rằng các ghế có đi ngược về xuôi
Có biết đền thờ ông lập ở nơi mô
Đền thờ ông Mười lập ở chốn kinh đô
Qua cầu Bến Thủy bên bờ sông Lam
Cũng có khi ông lên ngàn xuống biển
Lúc trở ra về thì phủ tía lầu son
Cũng có khi ông Mười ngồi ngắm ánh trăng tròn
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên
Hò ơ ơ ơ hò
Đò từ Đông Ba đò qua Vĩ Dạ, đò từ Đầm Đá tới phủ Văn Lâu
Nghiêng nghiêng nắng ngả về chiều
Con đò nhỏ đưa ghế ông về ngắm cảnh Nghệ An
Sông Lam – Hồng Lĩnh đẹp như tranh
Tạo hóa xưa nay đã đắp thành
Muôn thủa núi sông còn bền vững
Đất Nam Đàn Nghi Lộc vẫn còn ghi

Vậy có thơ rằng:

Hoa đào rơi rắc lồi thiên thai
Xui tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nữa năm tiên cảnh một bước trần ai
Ước cũ duyên tiên có thế thôi
Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi
Cánh hạc bay lên vút tận trời
Ngõ hạnh vườn đào xa cách mãi
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng soi.

Hò ông Mười:

Ơ Ơ Ơ chứ nói rằng trong đất Nghệ An có anh hùng hào kiệt, tiếng ông Mười lẫm liệt ngàn xưa, cũng có khi vung gươm lên ngựa đề cờ, ra tay gìn giữ cõi bờ Việt nam
Ơ Ơ Ơ cũng có khi ông Mười hội nghị luận bàn việc nước
Ông cũng đem tài thao lược để hiến dâng, lĩnh sắc rồng ông Mười hiến tướng, điều quân, gươm thiêng, ba thước ngựa hồng ông Mười sông pha
Ơ Ơ Ơ cũng có phen ông Mười lên rừng, xuống biển, khi chở ra về phủ tía lầu son, cũng có khi ông Mười ngồi ngắm bóng trăng tròn, khi xem hoa nở khi ông Mười ngồi chờ trăng lên
Ơ Ơ Ơ ông Mười nói rằng các ghế thanh đồng đã đi ngược về xuôi, có biết đền ông Hoàng Mười lập ở nơi đâu, đền thờ ngài lập ở kinh đô, gần cầu Bến Thủy bên bờ sông Lam
Ơ Ơ Ơ biết ông Mười ra ông cho núi ngọc lại non vàng, không biết đến ông Hoàng Thập dù có của cải ông cũng đổ ngoài biển đông
Ơ Ơ Ơ Biết ông Mười ra ông cho núi bạc non vàng, không biết đến ông Hoàng Thập dù có của cải ông cũng để nhỡ nhàng mặc ai
Ơ Ơ Ơ Ông Mười hỏi rằng dù ghế của ông có đi mô đi tê, nhớ ngày kỷ niệm phải về bắc ghế hầu ông
Ơ hò là hò ơi, trong xứ Nghệ vui nhất có chợ Vinh, đẹp nhất có cầu Bến Thủy, tối anh linh có đền ông Hoàng Mười
Ơ hò là hờ ơi, nước sông Lam vừa trong vừa đục gạo chợ chùa vừa trắng vừa trong, ngày hôm nay ông Mười loan giá về đông, điều lành điều dữ, ông phán cùng trần gian
Ơ hò là hò ơi, ngày hôm nay ghế con xin ông trăm năm nay đắc lộc sai tài, kim ngân sớ diệp để trình ngày hôm nay
Ơ hò là hò ơi, ông chít khăn điều mặc áo hoàng anh, phàm trần đố ai họa được bức tranh ông Mười ngồi
Ơ hò là hò ơi, biết ông Mười ra ông cho sung sướng cả cuộc đời, ông cho cầu lên ước được trong gia chung được thuận hòa.
Khi thanh nhàn ông Mười dạo cảnh sông Lam, Hoàng bắt các
O trong phủ ngâm thơ sông Lam ơ ơ ơ ơ hò ơ ờ hờ ơ ơ ơ ơ
Dòng sông Lam trăng nước lững lờ, yên tâm đón khách đưa về đất Nghệ An
Lâng lâng i i lâng lâng rũ sạch ba miền
Một ngày họ Trần được làm đệ tử, cũng lên duyên nợ nhiều
(Xanh xanh tỏa đá mới phủ rêu)2
Ai là người dày phúc mới được theo đức Hoàng Mười
Hò ơi, ơi hò, anh linh lưu dấu muôn đời ( đúng đó) anh linh lưu dấu muôn đời, Nghệ An mở rộng đón những người hữu duyên, hò là hò ơi ơi hò.
Thuyền rồng còn đợi bến sông
Trở các thanh đồng đi lễ hội trong Nghệ An
Cho dù trăm nhớ ngàn thương
Vì đòng nên ông phải vấn vương nơi cõi trần

Hò Huế:

Nay ông Mười về giáng phúc trừ tai
Đồng gia tín chủ ai ai cũng thọ trường
Muối ba năm mối kia còn mặn, gừng chín tháng gừng vẫn còn cay
Ghế ông tình nặng nghĩa dày, xa xôi tận trong xứ Nghệ ông vẫn vô đây ông ngự đồng
Dòng sông Lam bên lở bên bồi
Dấu thiêng ông Mười để cho người đời phải khói nhang
Dù cho cách trở sông Lam
Ngày nay có cầu bến Thủy bắc ngang sang đôi bờ
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Ghế ông năm nay bao nhiêu tuổi mà vẫ hào hoa đẹp như ngày nào
Ông đã chứng tâm tiếp lộc cho thanh đồng
Ông cho ghế ông cầu từ hôm nay nên cầu nên ước được
Cho gia chung được thuận hòa
Ông cho ghế ông buon bán gần xa
Ông tiếp lọc gần rồi lại tiếp lộc xa

Lý qua cầu:

Nghệ An danh nức danh ông Mười
Đai vàng khoác áo vàng anh, về đây ông ngự đồng
Lại được cung văn dâng lời ca tiếng thơ cung đàn
Cầu mong quan lớn chứng tâm độ cho dân chúng
Vui sông bình an giầu sang hết gian nan khỏi ách cơ hàn

Lý Mỹ Hưng:

Trong vùng khu tư ông Mười nức danh tiếng đồn
Cầm quân giết giặc giữ giang sơn nước Nam thanh bình
Giặc ngoại xâm hồn tan phách tán
Ông đi tới đâu chúng dân ra đón ông
Tiếng thơm ông Mười đời sau còn hương khói
Chúng con nguyện cầu ông an tài tiếp lộc
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh qua cầu bến thủy ơi người ơi
Mười hai cô tố nữ theo hầu
Trâm hoa trâm hoa cài tóc khăn nhiễu tàu ông vắt vai
Đầu lược dắt chân dậm đôi văn hài
Cô cả dấng ông điếu ngự, ông bắt cô nàng hai đi theo hầu
Cô nàng ba gối xếp theo sau, đất lề quê thói
Cô tư têm trầu rước ông Mười xơi
Cô nàng năm dâng đóa gương soi
Còn cô nàng sáu đứng bên ngoài rót rượu hầu ông
Cô nàng bẩy dâng đóa hoa hồng
Còn cô nàng tám phò chiếc kiệu rồng rước ông Mười lên
Cô nàng chín yểu điệu ai tày, tiếng tiêu cô thổi làm đầy vơi lòng Hoàng
Cô nàng mười thắt dải lưng hồng hai tay dâng một đôi dày để hầu ông
Còn đôi cô múa lượn bài bông
Mười hai các cô tố nữ hầu giá đôi bên ông rõ ràng

Cờn:

Nghe thương hội nghị quần tiên
Được tin ông Mười tới thiên duyên trạnh lòng
Vân tiên mượn cánh chim hồng i i i
Xin người soi tỏ tức lòng gió giăng
Nhịp cầu ô đem bắc sông Ngan i i i
Cầu ô đem bắc sông Ngân, Hoàng ngồi trong cung quảng
Kìa ngồi trong cung quảng, đêm xuân mơ màng
Bóng trăng soi tỏ canh trường i i i
Đã cam tấc dạ tuyết sương reo hò
Thủy tiên dìu dắt đón mời i i i
Bấy lâu khao khát đầy vơi sao đành
Vượt bể đào lên tới ngàn xanh i i i
Đường xưa cảnh cũ nặng tình nước non
Trúc xinh cô quế cũng giòn i i i

Thơ đỗ bộ:

Cõi trần mở tiệc mừng vui đảng tiệc về
Nhớ đức Hoàng người giáng sinh
Họa vần tho kính chúng thánh minh
Phong hoa tuyết nguyệt phẩm bình mấy chương
Ngẫm câu thế sự vô thường i i i
Tấc son mượn nước cành dương tới nhuần
Vắng hoàng vắng cà mùa xuân i i i
Nhớ hoàng vì nước vì dân vì đời
Thế gian nhớ miệng hoàng cười, nhớ khăn hoàng chít, nhớ lời truyền ban
Khi phó cát lúc đồi ngang
Non kinh vó ngựa rậm ngàn tiêu giao
Đường đường cung kiếm anh hào
Túi thơ bầu rượu sớm chiều thênh thang
Hèo hoa trẩy hổi thiên hương i i i
Chấm đồng nhận lính khắp miền đông tây
Khi nương gió lúc lại se mây i i i
Khi rung khánh ngọc lúc lay chuông vàng
Hoàng về gối xếp ai mang i i i
Hèo hoa anh vác ngựa Hoàng ai trông
Lệnh truyền cô quế cô hồng i i i
Hèo hoa gối xếp đèn lồng mang tay
Lan lan huệ huệ xếp hàng
Dóng xe dóng ngựa lên đường vân du
Thuyền ai thấp thoáng chèo đưa i i i i
Kinh kỳ nhã nhạc hoàng về Nghệ An
Lệnh truyền bát vạn hùng binh
Kiệu vàng tám tía rước Hoàng về Nghệ An